A. DẠNG BÀI THỰC HÀNH, LUYỆN TẬP PHÉP CỘNG VÀ PHÉP TRỪ:
+ Đặc điểm: Các kiến thức được sắp xép từ đơn giản đến phức tạp, kiến thức học trước chuẩn bị cho kiến thức học sau, kiến thức học sau góp phần củng cố cho kiến thức học trước. Việc thực hành vận dụng các kiến thức về phép cộng, phép trừ rất được coi trọng trong toán 1 (mới) không chỉ thực hành khi luyện tập, củng cố mà thực hành ngay khi học bài mới để tự phát hiện, giải quyết vấn đề, tự tìm ra công thức cộng, trừ... Đặc biệt toán 1 nêu ra nhiều dạng bài tập cộng, trừ vừa củng cố các kỹ năng gây hứng thú học tập cho học sinh.
Trong quá trình thực hành luyện tập, giáo viên bao giờ cũng yêu cầu học sinh phải làm bài tập theo thứ tự đã sắp xếp, không tự ý lướt qua hoặc bỏ qua bài tập nào, kể cả các bài tập học sinh cho là dễ (câu a, b).
Học sinh làm xong bài 1, tự kiểm tra hay đổi chéo bài để kiểm tra lẫn nhau (hoặc nhờ giáo viên kiểm tra) thì chuyển sang làm bài tiếp sau. Không nên bắt học sinh chờ đợi nhau trong quá trình làm bài.
Khi cần thiết có thể cho học sinh trao đổi ý kiến trong nhóm nhỏ hoặc trong toàn lớp về cách giải hoặc các cách giải một bài tập. Giáo viên cần giúp những em làm bài chậm về cách làm bài; giúp các em giỏi làm các bài tập của tiết học và khai thác hết nội dung của từng bài tập.
Như vậy, Toán 1 (mới) đã sắp xếp lại nội dung phần cộng, trừ các số trong phạm vi 5 là để học sinh kỹ từng phép tính trước khi nhận ra quan hệ của hai phép tính cộng, trừ. Dạy học phép cộng, phép trừ (không nhớ) trong phạm vi 100 thực chất là sử dụng mở rộng bảng cộng, trừ trong phạm vi 10. Nhờ học kỹ thuật về cộng, trừ trong phạm vi 10 (gồm 41 tiết) và chủ động dạy học làm tính theo cột dọc, nên khi dạy học các số trong phạm 100 đã kết hợp dạy số với phép tính:
+ Dạy học các số đến 20 (11 số đầu tiên có hai chữ số gồm, 10, 11, 12,... 20) đã dạy cộng, trừ nhẩm hoặc viết các phép tính dạng 14 + 3; 17 - 3; 17- 7 (số có hai chữ số cộng hoặc trừ số có một chữ số).
+ Dạy học số tròn chục: (10, 20, 30... 90) đã dạy cộng trừ các số tròn chục (số có hai chữ số cộng hoặc trừ, số có một chữ số sang đơn giản).
+ Dạy học xong các số có hai chữ số (10, 11, 12... 99) đã có thể dạy học cộng trừ (không nhớ) các số có hai chữ số. Như thế việc dạy thực hành tính theo bảng cộng, trừ trong phạm vi 10 đã được mở rộng ra số có hai chữ số.
Rõ ràng học sinh củng cố, ôn tập, thực hành nhiều mà không nhàm chán, lúc nào cũng được tiếp cận với kiến thức mới nhưng vẫn vừa sức tiếp thu của học sinh. Đây là ưu điểm của toán 1 (mới); học sinh được thực hành nhiều, củng cố nhiều, tiết kiệm thời gian mà vẫn không cảm thấy nặng nề, căng thẳng.
B. DẠNG BÀI TẬP BẢNG CỘNG (HOẶC BẢNG TRỪ):
Quy trình tổ chức các hoạt động của học sinh gồm:
a. Lập một công thức bảng cộng hoặc trừ: - Quan sát tranh, hình trong SGK để nêu vấn đề mà giải quyết vấn đề đó sẽ dẫn tới thực hiện phép cộng (hoặc phép trừ) (giáo viên giúp học sinh tự nêu được vấn đề). - Dùng vật thực hoặc hình tròn bằng bìa... (Có trong bộ đồ dùng Toán 1) để thể hiện vấn đề (bài toán) vừa nêu rồi giải quyết vấn đề đó (thực hiện phép tính và tìm được kết quả phép tính). - Viết rồi đọc toàn bộ phép tính (trong bảng tính), chẳng hạn: Viết: 3 + 2 = 5; đọc "ba cộng hai bằng năm" Cứ như vậy cho đến khi lập xong bảng tính.
b. Tổ chức cho học sinh ghi nhớ bảng tính: - Cho học sinh đọc thành tiếng; đọc thầm bảng tiếng theo thứ tự khác nhau (lần lượt từ trên xuống hoặc từ dưới lên, hoặc theo thứ tự do giáo viên chọn). - Cho học sinh tái hiện số bị xoá (hoặc che lấp đi) trong một số công thức của bảng tính. n Chẳng hạn: Giáo viên che một số trong bảng tính 3 + 2 = 5 và yêu cầu học sinh nêu toàn bộ phép cộng kể cả số che lấp. + 2 = 5. Học sinh đọc "ba cộng hai bằng năm"... - Cho học sinh tái hiện một số phần của bảng tính: Giáo viên xoá toàn bộ kết quả tính hoặc một số trong vài công thức tính hoặc một số công thức tính trong bảng tính rồi gọi học sinh đọc phần bảng tính đã bị xoá.
c. Tổ chức cho học sinh thực hành, vận dụng bảng tính để giải bài tập trong sách giáo khoa: Học sinh tự làm bài tập trong sách giáo khoa toán 1 (mới) theo thứ tự từ bài 1 đến bài cuối. Không nhất thiết phải làm hết các bài trong mỗi bài tập. Giáo viên nên chọn sẵn một số bài quan trọng để học sinh làm tại lớp; học sinh làm xong bài nào, giáo viên tổ chức cho học sinh chữa bài đó. Khi chữa bài tập nên yêu cầu học sinh nhắc lại một công thức, hoặc một số công thức trong bảng tính để củng cố việc ghi nhớ bảng tính. Nên chuyển một số bài tập (thường là bài tập thực hành có nội dung gắn với một trò chơi học tập) thành trò chơi học tập của từng học sinh (tức là mọi học sinh đều được tham gia trò chơi).