1. Phát hiện học sinh có khả năng trở thành học sinh giỏi môn Tiếng Việt:
Những học sinh có khả năng về môn Tiếng Việt có những biểu hiện sau:
Các em có lòng say mê văn học, có hứng thú với nghệ thuật ngôn từ, yêu thích thơ ca, ham mê đọc sách báo, thích nghe kể chuyện, có những em ước mơ thành nhà văn hoặc trở thành cô giáo dạy bồi dưỡng môn văn - Tiếng Việt. Phần lớn các em không hờ hửng trước vẻ đẹp của ngôn từ văn chương, gắng ghi nhớ và ghi chép những câu văn hay.
Các em có những phẩm chất tư duy có tính thống nhất: tư duy phân loại, phân tích, trừu tượng hóa, khái quát hóa.
Có năng lực quan sát, nhận xét ngôn từ của mọi người và của chính mình.
Có em còn biết quan sát hiện thực, biết liên tưởng, giàu cảm xúc. Ví dụ một em nhìn thấy trăng bị mây che đã nói: “ trăng đắp chăn”. Hay có em khi đọc 2 câu thơ
“ Con xót lòng mẹ hái trái bưởi đào
Con nhạt miệng có canh tôm nấu khế.”
Các em đã hiểu được vừa hình ảnh vừa cụ thể: mẹ lúc nào cũng sẵn sàng chăm sóc con, lo lắng cho con, làm tất cả những gì mà con cần...
Từ đó ta thấy các em có khả năng tư duy nghệ thuật là có khả năng tiếp nhận vẻ đẹp của ngôn từ, cách nói của văn chương, biết phát hiện những tín hiệu nghệ thuật ngôn từ trong việc biểu đạt nội dung.
Về khả năng sử dụng từ: Những học sinh giỏi Tiếng Việt thường có khả năng sử dụng nhiều tính từ, từ láy, từ tượng hình, từ tượng thanh, sử dụng những câu có nhiều thành phần phụ như định ngữ, bỗ ngữ, câu văn sáng sủa, rõ ý, bộc lộ được sự đánh giá, tình cảm của mình với hiện thực được nói tới.
Chúng ta thử so sánh 2 cách diễn đạt của một học sinh trung bình và một học sinh giỏi môn Tiếng Việt: “ Chúng em đã đến thăm Quảng trường Ba Đình. Quảng trường này rất có ý nghĩa vì tại đây bác Hồ đã đọc tuyên ngôn độc lập, cũng vì thế, lăng Bác được dựng ở đây.”
“ Thế là chúng em đã được đến Quảng trường ba Đình lịch sử. Nơi đây Bác Hồ đã đọc tuyên ngôn đọc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, cũng chính nơi đây toàn dân ta đã chung sức xây nên nơi an nghỉ cuối cùng của Người”
Đoạn văn của em học sinh giỏi nó có tác động không phải chỉ vào lí trí mà cả tình cảm của người đọc.
Vậy cần đặt vấn đề phải phát hiện những học sinh có khả năng giỏi Tiếng việt từ lúc nào? Nên tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi từ lớp nào?
Trên thực tế, có nhiều trường khi chuẩn bị thi học sinh giỏi mới tập trung một số buổi để ôn luyện, nhiều trường bồi dưỡng từ lớp 4. Có thể nói việc bồi dưỡng học sinh giỏi càng bắt đầu sớm bao nhiêu càng có hiệu quả bấy nhiêu.
Ở lớp 1, nhiệm vụ chính của các em là nhanh chóng chiếm lĩnh công cụ chữ viết, đọc thông - viết thạo nên ở những trường có điều kiện cũng chỉ nên bồi dưỡng học sinh giỏi từ lớp 2.
Để phát hiện những học sinh có năng lực Tiếng Việt, cần có sự điều tra các phép đo nhằm khảo sát, tìm hiểu hứng thú, tìm hiểu thông qua phụ huynh, phỏng vấn trực tiếp các em, theo dõi, nắm tình hình học tập của trẻ.
2. Bồi dưỡng hứng thú học tập:
Hứng thú có vai trò quan trọng trong học tập và làm việc. Không có việc gì người ta không làm được dưới ảnh hưởng của hứng thú. Vì vậy M.goocki có nói: “ Thiên tài nảy nở từ tình yêu đối với công việc”. Vì vậy bồi dưỡng hứng thú học tập rất quan trọng. Không có con đường nào khác là giúp các em thấy được vẻ đẹp và khả năng kì diệu của tiếng Việt – văn học, từng giờ, từng phút trong giờ Tiếng Việt, người giáo viên đều hướng đến hình thành và duy trì hứng thú cho học sinh.
Ví dụ cách giới thiệu bài: Chúng ta đã được học rất nhiều bài về mẹ, “Bao tháng bao năm mẹ bế con trên đôi tay mềm mại ấy” “ Mẹ là ngọn gió của con suốt đời” “ Bình yêu nhất là đôi bàn tay mẹ, những ngón tay gầy gầy xương xương”... Hôm nay, chúng ta lại được học một bài có tựa đề về “ Mẹ” của nhà thơ Bằng Việt, các em hãy cùng cô đọc xem bài “Mẹ” này có gì khác với những bài về mẹ mà các em đã học.
Cả những bài về từ ngữ hay ngữ pháp khô khan cũng đều gây được hứng thú nếu giáo viên nắm được bản chất vấn đề và biết dùng phương pháp nêu vấn đề.
Cho trẻ tiếp xúc trực tiếp càng nhiều càng tốt với những tác phẩm văn chương, những mẫu hình sử dụng ngôn ngữ mẫu mực vì “ không làm thân với văn thơ thì không nghe thấy được tiếng lòng chân thật của nó” ( Lê Trí Viễn)
Hứng thú Tiếng Việt – văn chương còn được tạo ra bằng cách kể cho các em nghe về cuộc đời riêng của các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng, tổ chức nói chuyện thơ văn, ngoại khóa Tiếng việt...
3. Bồi dưỡng vốn sống:
Hiện nay, nhiều giáo viên khi dạy làm văn cho học sinh thường thiên về dạy kỉ thuật làm mà ít cung cấp các chất liệu sống – cái tạo nên nội dung bài viết.
Khi một em học sinh ngồi trước một đề văn 15-20 phút vẫn chưa viết được, giáo viên thường cho rằng các em không nắm được lí thuyết thể văn mà không hiểu rằng nguyên nhân đầu tiên làm các em không có hứng thú viết là các em không tạo được một quan hệ thân thiết giữa mình với đề bài - đối tượng kể hoặc tả, nghĩa là các em không có nội dung, không có gì để nói, để viết. Nguyên nhân đó là việc thiếu hụt về vốn sống, vốn cảm xúc của học sinh.
Từ đó, tôi rút ra phương pháp bồi dưỡng vốn sống cho các em trước hết đó là vốn sống trực tiếp: cho các em quan sát, trải nghiệm những gì các em sẽ phải viết.
Ví dụ hướng dẫn các em quan sát con đường trước khi yêu cầu các em tả nó. Tất nhiên giáo viên cần làm cho vốn sống thực này không cản trở trí tưởng tượng của các em. Nhưng trí tưởng tượng dù có bay bổng đến mấy vẫn phải có cơ sở bắt nguồn từ thực tiễn. Người giáo viên đóng vai trò dẫn dắt, gợi mở, tạo nguồn cảm hứng khơi dậy suy nghĩ trong các em như khi quan sát một con lợn, một cây chuối đang trổ buồng, một đàn kiến tha hạt gạo, một cây bàng đang thay lá...
Giáo viên cần xây dựng cho học sinh hứng thú và thói quen đọc sách . Đọc sách, các em không chỉ được thức tỉnh về nhận thức mà còn rung động tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp khơi dậy năng lực hành động, bồi dưỡng tâm hồn. Người xưa nói: “ trong bụng không có 3 vạn quyển sách, trong mắt chưa có núi sông kì lạ của thiên hạ thì chưa học được văn”.
4. Bồi dưỡng kiến thức kĩ năng Tiếng Việt:
4.1. Bồi dưỡng kiến thức- kĩ năng từ ngữ: Được chia làm 2 mảng lớn:
a. Bồi dưỡng lí thuyết về từ:
- Nội dung không vượt ra ngoài 12 bài lí thuyết về từ, từ đơn, từ ghép, từ láy, từ ghép tổng hợp, từ ghép phân loại, các kiểu từ láy, các dạng từ láy, nghĩa của từ láy, từ tượng hình, từ tượng thanh, từ nhiều nghĩa, từ cùng nghĩa, từ trái nghĩa, từ cùng âm khác nghĩa
b. Phân loại nhận diện từ theo cấu tạo:
Dựa vào số lượng tiếng của từ chia ra từ đơn và từ đa âm.
Phân loại nhóm từ đa âm phải dựa vào mối quan hệ giữa các tiếng trong từ: Nếu có mối quan hệ về mặt ngữ nghĩa là từ ghép. Nếu có mối quan hệ về âm là từ láy.
Lưu ý ở tiểu học, những từ thuần Việt như tắc kè, bồ hóng, bồ kết... hay những từ vay mượn: mì chính, xà phòng, mít tinh...là những từ mà cả 2 tiếng đều không có quan hệ cả về nghĩa lẫn về âm, vì vậy những từ này không được dùng làm ngữ liệu để ra bài tập. Nếu HS chủ động đưa ra để hỏi thì giáo viên trả lời đó là một từ ghép đặc biệt: từ ghép ngẫu hợp
Các từ 2 tiếng có sự giống nhau nào đó về âm như chôm chôm, thằn lằn, ba ba, ngày ngày, gật gật...đều được xem là từ láy.
Các kiểu từ như ồn ào, ầm ĩ, ọc ạch, ỏn ẻn... đều được xem là từ láy và được giải thích nó giống nhau ở chỗ cùng vắng khuyết phụ âm đầu.
Những từ như cong queo, cuống quýt, king coong... cũng là từ láy có phụ âm đầu viết dưới dạng thức các con chữ khác nhau.
Về phân biệt từ ghép tổng hợp và từ ghép phân loại;
Từ ghép tổng hợp: Giữa các tiếng có quan hệ đẳng lập, mang tính tổng hợp, khái quát.
Từ ghép phân loại: Có yếu tố cụ thể hóa, cá thể hóa nghĩa cho yếu tố kia.
Lưu ý một số từ tùy từng ngữ cảnh mà xếp khi là từ ghép tổng hợp, khi là từ ghép phân loại . Ví dụ: từ “ sáng trong” trong câu: “ Một tấm lòng sáng trong như ngọc” là từ ghép tổng hợp. Có thể đổi thành “ trong sáng”. Nhưng trong câu “ Nhớ mua bóng đèn sáng trong đừng mua bóng đèn sáng đục” thì “ sáng trong” ở đây là từ ghép phân loại.
4.2 Làm giàu vốn từ hay luyện kĩ năng nắm nghĩa từ và sử dụng từ cho HS:
Dạng 1: Yêu cầu HS giải nghĩa từ ngữ hay thành ngữ . Ví dụ: Em hiểu thành ngữ “ Gió chiều nào che chiều ấy” là thế nào? Lao động trí óc là gì?
Dạng 2: Cho những từ có cùng yếu tố cấu tạo: Ví dụ phân biệt nghĩa của mẹ đẻ, mẹ nuôi, mẹ kế, mẹ ghẻ...
Dạng 3: Yêu cầu HS kể ra các từ theo chủ đề:
Dạng 4: Yêu cầu phân loại từ theo nhóm nghĩa và đặt tên cho nhóm.
Dạng 5: Dạng đề sửa lỗi dùng từ sai;
Dạng 6: Đặt câu, viết đoạn văn với từ cho sẵn:
Dạng 7: Điền từ vào chỗ trống.
Và nhiều dạng khác nữa, giáo viên phải nắm chắc, cho HS được tiếp cận nhiều lần thì bài kiểm tra mới đạt hiệu quả cao.
4.3 Bồi dưỡng kiến thức, kĩ năng ngữ pháp:
Trong các đề thi học sinh giỏi, phần ngữ pháp thường chiếm số điểm 5/20.
Các dạng đề và những điều cần lưu ý cho HS:
a.Khái niệm câu và bản chất của câu:
Các em thường nhầm trạng ngữ là câu, nhầm ngữ danh từ là câu, thường đặt câu thiếu thành phần. Vì vậy cần tập trung vào các dạng bài tập:
- Các ví dụ sau, ví dụ nào đã thành câu? Ví dụ nào chưa thành câu? Vì sao? Chữa lại cho đúng.
- Chữa câu sai bằng 2 cách
b. Cấu tạo ngữ pháp của câu, các thành phần câu:
- Đó là các dạng bài tập: Yêu cầu HS chỉ ra các thành phần của câu cho sẵn
- Yêu cầu HS tìm bộ phận chính, bộ phận phụ của câu
- Yêu cầu HS kết hợp các thành phần câu
- Dạng mở rộng nòng cốt câu bằng cách thêm các thành phần phụ.
c. Kiến thức về dấu câu và kĩ năng sử dụng dấu câu.
Dạng cho một đoạn văn không có dấu câu yêu cầu HS tự đánh dấu câu và chỗ thích hợp.Dạng chữa lại những chỗ đã đặt dấu câu không đúng.
d. Kiến thức về từ loại, kĩ năng xác định từ loại:
Dạng yêu cầu HS tìm danh từ, động từ, tính từ trong câu, đoạn văn...
5. Bồi dưỡng cảm thụ văn học:
5.1. Mục đích:
Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học là một quá trình lâu dài và công phu. Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học trước hết là bồi dưỡng vốn sống cho các em. Có vốn sống các em mới có khả năng liên tưởng để tiếp nhận tác phẩm, tạo điều kiện để các em tiếp xúc nhiều với tác phẩm, giáo viên không được cảm thụ hộ, biến HS thành người minh họa cho mình. Giáo viên là người gợi mở dẫn dắt cho sự tiếp xúc của HS với tác phẩm tốt.
Hoạt động của giáo viên chỉ có tác động bổ trợ cho cảm xúc thẩm mỹ nảy sinh. cần tôn trọng suy nghĩ, cảm xúc thực, ngây thơ của trẻ và nâng chúng lên ở chất lượng cao hơn. Đồng thời giáo viên phải trang bị cho các em một số kiến thức về văn học như hình ảnh, chi tiết, kết cấu tác phẩm, các đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật, một số biện pháp tu từ...
5.2. Biện pháp thực hiện
Một trong những biện pháp có hiệu quả mà tieuhoc.info đã làm nữa là giúp HS đọc diễn cảm có sáng tạo, nó giúp HS nâng cao khả năng cảm xúc thẩm mỹ và kích thích các em khám phá ra cái hay, cái đẹp của văn chương.
5.3. Xây dựng hệ thống câu hỏi
Để giúp HS cảm thụ được tác phẩm, giáo viên cần có hệ thống câu hỏi, bài tập liên tưởng, tưởng tượng, đó là những câu hỏi về ý nghĩa của tác phẩm giúp HS hiểu mục đích thông báo của văn bản, đánh giá nhân vật, thái độ, tình cảm, tư tưởng của tác giả, đánh giá giá trị nghệ thuật những từ ngữ hình ảnh cấu tứ gây ấn tượng.
6. Bồi dưỡng viết văn cho học sinh giỏi:
Làm văn là nơi thử thách ở HS các kĩ năng Tiếng Việt: vốn sống, vốn văn học, năng lực cảm thụ văn học một cách tổng hợp. Học sinh phải thể hiện cảm xúc suy nghĩ bằng ngôn ngữ nói và viết từ đó rèn cách nghĩ, cách cảm chân thật, sáng tạo, luyện cách diễn tả chính xác, sinh động, hồn nhiên tiến tới có nét riêng độc đáo. Vậy để học sinh tiểu học viết văn tốt thì cần làm :
6. 1. Kĩ năng chọn đề tài:
Để luyện tập kĩ năng viết văn của HS cần có những bài viết tốt, giáo viên biết lựa chọn đề, biết tự ra đề, đề bài gần gũi, thân thiết quen thuộc với các em nhưng không lặp lại, gò bó, nhàm chán.
6. 2. Kĩ năng viết bài:
Giáo viên cần rèn luyện cho HS kĩ năng tìm hiểu phân tích đề, quan sát tìm ý, những kĩ năng diễn đạt , viết đoạn và hoàn thiện bài viết.
6. 3. Kĩ năng chấm bài
Giáo viên cần chấm chữa bài cho từng em thật kĩ lưỡng, trả bài giúp HS thấy được những ưu khuyết điểm của bài viết của mình, tự rút ra kinh nghiệm và sửa chữa. Nên tạo không khí trao đổi, tranh luận khi chữa bài.
Nguồn: tieuhocvn.info